Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Đại hội Quốc dân ngày 16-8-1945 tại đình Tân Trào cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Bác Hồ làm chủ tịch - Ảnh tư liệu của Nguyễn Học |
Lịch sử mãi mãi nhớ ghi: Ngày 28/1/1941, đất nước đón một người con của dân tộc, trước đó 30 năm đi tìm chân lý để về giúp đồng bào. Được sự giúp đỡ của cán bộ và đồng bào địa phương, ngày 8/2/1941, với tên gọi mới là Già Thu, Bác vào ở và làm việc tại hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là đầu nguồn) một hang núi kín đáo của dãy núi hùng vĩ.Sau khi đề nghị và được Quốc tế cộng sản chấp thuận, mùa Đông năm 1938, Bác Hồ đến Trung Quốc với tên là Hồ Quang, cấp bậc thiếu tá tìm cách về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Tháng 2/1940, mang bí danh “ông Trần”, Bác đến nhà ông bà Tống Minh Phương, Việt kiều ở 76 đường Kim Bính trong nội thành Côn Minh và Người đã chắp được mối liên hệ với Đảng và phong trào cách mạng trong nước qua Ban công tác Hải ngoại của Đảng.
Tại hang Cốc Bó, Bác đã tạc trên phiến nhũ đá bức tượng Các Mác, nên Bác đặt tên là núi Các Mác, ở thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đồ đạc không có gì ngoài chiếc va li mây đựng tài liệu, cái máy chữ và chiếc sàn nằm bằng tấm gỗ. Ban ngày, Bác ra bờ suối nơi đầu nguồn (mà Bác đặt tên là suối Lenin), những người giúp việc Bác, đã tạo ra cho Bác một cái bàn và một cái ghế bằng những tảng đá ghép lại để Bác làm việc. Và “sáng ra bờ suối, tối vào hang”, Người bắt đầu chăm lo một sự nghiệp lớn “hai tay gây dựng một sơn hà”.
Tháng 5/1941, Bác đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Đảng tại Khuổi Nậm (Pác Bó) quyết định giành độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh gọi tắt là Việt Minh. Mặt trận Việt Minh đã lôi cuốn, tập hợp quần chúng cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, đã góp phần quyết định sự thành công của Cách mạng Tháng 8. Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cực kỳ to lớn, người cầm lái con tàu cách mạng vượt qua bão táp để cập bến độc lập, tự do.
Hai năm 1941-1942 ở Cao Bằng, Bác viết rất nhiều tác phẩm kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, tuyên truyền, cổ vũ mọi tầng lớp, giai cấp chờ thời cơ đứng lên đánh giặc cứu Tổ quốc, như: Khuyên đồng bào mua báo Việt Nam độc lập (1/8/1941); Mười chính sách của Việt Minh(1941); Dân cày (22/8/1941); Phụ nữ (1/9/1941)…
Trong tác phẩm Lịch sử nước ta (2/1942), Bác đã đưa ra một dự đoán thời gian nước nhà độc lập “Việt Nam độc lập: 1945”. Và thực tế lịch sử đã chứng minh đúng sự thiên tài này của Người khi ngày 2/9/1945, nước Việt Nam mới của ta đã ra đời.
Toát lên từ các tác phẩm trên chính là những vấn đề cốt tử cho một cuộc cách mạng giải phóng: Thứ nhất là việc mở mang dân trí như trong bài khuyên đồng bào mua báo Việt Lập, Bác viết “Làm cho ta mở mắt mở tai/Cho ta biết đó biết đây... Cho ta biết nước non ta là gì...”. Thứ hai là vấn đề tổ chức, Bác coi đây là một trong những nhân tố mang tính quyết định giúp cách mạng sớm thành công và vai trò của tổ chức là sự lãnh đạo, chỉ đạo là Mặt trận Việt Minh “Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh”. Thứ ba là vấn đề đoàn kết, từ trong các tác phẩm của Bác Hồ đều nói lên: Chúng ta phải biết kết đoàn. Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh.
Nói về công lao chuẩn bị chu đáo của Bác Hồ cho cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945, đầu năm 1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng (1846-1947) (với danh nghĩa là Hội trưởng Hội Quốc dân Việt Nam) đã viết một bức thư dài bằng chữ Hán (thể phú) nhan đề “Kính cáo đồng bào phụ lão kháng chiến” chỉ rõ: Người thân yêu nhất của đồng bào quốc dân chúng ta là Hồ Chí Minh tiên sinh; là bậc yêu nước đại chí sĩ; là nhà lịch nghiệm cách mạng đại chuyên gia: chân đi khắp 5 châu, mắt trông xa vạn dặm. Nhận rõ thời cuộc, lặng đồ thời cơ. Tổ chức giải phóng du kích quân, lãnh đạo thanh niên, cán bộ, bộ đội. Quân dân một chí, ước vạn đồng lòng. Chất chứa lâu ngày, chuốt mài đứng dậy. Cầm đầu dơ tay kêu gọi là trận tuyến Việt Minh. Hưởng ứng múa gậy đứng lên là dân quân toàn quốc... Sức mạnh anh hùng là chiến sĩ xung phong của đội tự vệ. Oanh liệt một trường, nước non muôn thuở. Xiềng xích cường quyền trên 8 thế kỷ, vó trâu, chân ngựa quét sạch sành sanh. Trò hề chuyên chế 3 ngàn năm, cảnh cọp, hầm ly lặng im thin thít. Sướng ơi là sướng, thoát thân nô lệ làm chủ nhân ông. Vui thật là vui, đổi quyền vua mà làm dân quốc mới” (3).
Cùng với việc chuẩn bị tài liệu cho huấn luyện, Bác cho mở lớp quân sự đầu tiên tại Pác Bó, và Bác gọi đây là lớp tổ du kích Pác Bó, và Bác giao cho đồng chí Đinh Sửu (tức đồng chí Trương Thiết Hùng - sau này là vị tướng trong quân đội) phụ trách lớp. Những học viên của lớp có kể lại chuyện Bác dạy cho bài về sự thượng tôn dân tộc: Hôm đó đến môn bồng súng chào, cả lớp đang bí không biết chào theo kiểu gì, thì được Bác đến thăm, Bác hỏi:
- Có gì khó không?
Sau khi đồng chí Đinh Sửu báo cáo, Bác hỏi:
- Tây chào kiểu nào?
Đồng chí Đinh Sửu làm mẫu, Bác lại hỏi:
- Tàu chào kiểu nào?
Đồng chí Đinh Sửu lại cầm súng làm mẫu, Bác nói:
- Thế theo kiểu không Tây, không Tàu được không?
Và Bác bày cho cả lớp làm: Nâng súng lên, hơi ngả mũi súng về phía trước, cho báng súng áp sát vào đùi, súng và người tạo thành chữ V. Nhìn các đồng chí học viên của lớp làm một lượt, Bác bảo:
- Được đấy, chào theo kiểu Việt Minh (1).
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập theo chỉ thị của Bác. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh, mang bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”: “Trung với nước, Hiếu với dân. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Khó khăn nào cũng vượt qua. Kẻ thù nào cũng đánh thắng” góp sức cùng với dân tộc bách chiến, bách thắng.
Bác đã dạy: “Làm cách mạng phải biết dựa vào thời cơ và phải nhìn chung phong trào mọi nơi, mọi chốn mới chiến thắng”(2), nên khi cuộc thế chiến lần hai chuyển biến có lợi cho phe Đồng Minh, Bác đã xác định nhiệm vụ cho cách mạng nước ta: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng Minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm, hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp ta phải làm nhanh”;
Đêm 9/3/1945, Nhật đã làm cuộc đảo chính hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Trước tình hình mới, để có điều kiện kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng đang dâng cao trong cả nước, từ đầu tháng 5/1945, Bác cho chuyển “đại bản doanh” của cách mạng từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang) chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 - Ảnh tư liệu |
Chấp hành chỉ thị của Bác, ngày 4/6/1945 Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập Hội nghị cán bộ tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng - hình ảnh một nước Việt Nam mới cho thế trận tổng khởi nghĩa. Tháng 8/1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng Minh, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội đại biểu Quốc dân ở Tân Trào. Bác đã ra chỉ thị: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi tới thắng lợi, Đại hội Quốc dân Tân Trào cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Bác làm chủ tịch. Đại hội Quốc dân Tân Trào đã hoàn thành nhiệm vụ như của một Quốc hội dân cử. Đại hội đã thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh, biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, biểu thị ý chí và quyết tâm đưa cuộc tổng khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn vào ngày 19/8/1945 và 2/9/1945, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Qua những dẫn chứng trên đây, rõ ràng là Pác Bó - Cao Bằng mà trong đó Cốc Bó, Khuổi Nậm là điểm khởi nguồn sự chuẩn bị công phu, chu đáo của Đảng, của Bác Hồ, đảm bảo chắc chắn cho cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 tới thành công, như Bác Hồ đã khẳng định trong lần về thăm lại nơi đây (2/1961): “Hai mươi năm trước ở hang này/ Đảng vạch con đường đánh Nhật-Tây/ Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu/ Non sông gấm vóc có ngày nay”.
________
(1) Đầu nguồn. NXB Văn học 1970;
(2) Hồ Chí Minh - Tiểu sử. NXB Lý luận chính trị 2006, tr.264, tr.308;
(3) Những lần gặp Bác. NXB Đà Nẵng 1985, tr.25-26.
TS. Trần Viết Hoàn
(nguồn: Sài Gòn Giải phóng)
Theo Infonet