LTS: Trao đổi với báo giới bên hành lang Quốc hội cuối tuần qua, Chủ nhiệm VPQH Nguyễn Hạnh Phúc cho hay, Chính phủ đang chuẩn bị các hồ sơ chứng lý để làm cơ sở khởi kiện ra toà án quốc tế, nếu Trung Quốc không có động thái rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Trong vụ kiện đó, Hoàng Sa và Trường Sa sẽ là trọng tâm bởi từ đó sẽ liên quan đến các vùng biển xung quanh. Trung Quốc đang lập luận rằng: “Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.” Vậy sự thật của nội dung công thư năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là gì? Ý nghĩa pháp lý của công thư này đối với chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa ra sao? Nó có phải là 1 bất lợi pháp lý ở Tòa án Quốc tế hay không? Tuần Việt Nam xin giới thiệu tư liệu của tác giả Lê Bình.
Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958 gồm 5 điểm. Trong đó, điểm 1 nguyên văn bản tiếng Trung được dịch ra như sau: “Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả)”.
Sau Tuyên bố này, ngày 14/9/1958, Thủ tướng nước VNDCCH Phạm Văn Đồng gửi bức công thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai với nguyên văn như sau: “Thưa đồng chí Tổng lý! Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4-9-1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Hoàn cảnh đặc thù
Muốn hiểu thấu đáo được ý nghĩa công thư 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chúng ta cần phải nhìn nhận lại lịch sử để thấy được hoàn cảnh lúc bấy giờ. Khi đó, trong bối cảnh của thời kỳ Chiến tranh lạnh, Đài Loan còn giữ hai đảo nằm giáp lãnh thổ Trung Quốc là Kim Môn và Mã Tổ. Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ “giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Thêm vào đó, ngày 29/4/1958 LHQ thông qua bốn Công ước gồm: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Và ra hạn chót để các quốc gia là thành viên của LHQ có thể ký nhận công ước này là ngày 31/10/1958. Vì khi đó, Trung Quốc không phải là một thành viên của LHQ nên nước này ra tuyên bố ngày 4/9/1958 để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận là cần thiết.
Công thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bấy giờ.
Trong một buổi họp tại Hà Nội ngày 2/12/1992, ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên UVBCT, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho rằng: “Khi đó, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa - Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho Tổ quốc. Đặc biệt thêm nữa là tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Nếu đọc kỹ công thư này, còn thấy sự khôn khéo trong cách hành văn ngoại giao, trong đó phía Việt Nam chỉ nói: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4-9-1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”
Câu văn này có nghĩa là phía Việt Nam ghi nhận ý muốn của Trung Quốc muốn nới rộng hải phận qua một tuyên bố đơn phương của mình, và tán đồng ý muốn này. Và đoạn văn kế đó có thể hiểu ngầm là trong tình trạng giao hảo “lúc đó” giữa hai nước, phía Việt Nam sẽ tôn trọng ý muốn 12 hải lý hải phận của Trung Quốc. Đặc biệt, không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong một tài liệu nghiên cứu thuộc Văn phòng Địa lý, Vụ nghiên cứu tình báo trực thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về “Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958”, ở Điều 1 không có liệt kê quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa. Nguyên văn được dịch như sau:“Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ và các đảo khác thuộc Trung Quốc (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả)”.
Trung Quốc có ý đồ gì khi cắt đi phần liệt kê quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa trong bản tiếng Anh? Từ đó có thể cho thấy ý đồ thâm hiểm sâu xa của Trung Quốc ngay cả khi quan hệ giữa 2 nước là hữu nghị, thân cận!
Luật pháp quốc tế
Trung Quốc lập luận rằng, với công thư 1958, Việt Nam thừa nhận quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa là lãnh thổ Trung Quốc trong quá khứ. Vì vậy, dựa trên nguyên tắc estoppel của luật pháp quốc tế, chính phủ Việt Nam hiện nay nên tuân theo ghi nhận trước đó.
Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia.
Tuy nhiên, theo luật quốc tế, “Thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.
Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: 1. Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch. 2. Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. 3. Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó. 4. Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ. 5. Ngoài ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải thực sự có ý định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi hành lời hứa đó”.
Theo Hiệp định Genève 1954, 2 hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và chỉ Chính quyền này được phát biểu về các đảo. Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp cho rằng: “Việt Nam Dân chủ cộng hòa không phải là chính phủ, về mặt lãnh thổ, có thẩm quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có quyền lực”. Gắn nội dung này vào với điều kiện 1 của estoppel có thể thấy, ông Phạm Văn Đồng không phải là người đại diện cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, nên dù ông có nói như thế nào về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều không có ý nghĩa pháp lý.
Trong khi đó, đại diện của nước Việt Nam sau khi người Pháp ra đi, Chính phủ Nam Việt Nam luôn khẳng định duy trì quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bằng nhiều Nghị định về quản lý các đảo, như Nghị định về quần đào Hoàng Sa được ký ngày 13/7/1961 thành lập đơn vị hành chính Định Hải; Nghị định ngày 21/10/1969 gộp xã đó với xã Hoa Long; hay việc sáp nhập các đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy ngày 22/10/1956, v.v… So sánh với điều kiện thứ 4 của estoppel cho thấy, có một tuyên bố được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng đó là sự khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, chứ tuyệt đối không phải là những tuyên bố từ bỏ chủ quyền. Nhưng người Trung Quốc lại sử dụng thái độ của các Chính phủ Việt Nam khác để làm căn cứ.
Thêm một lý do nữa không thể vận dụng thuyết trong trường hợp này, vì với công thư của ông Phạm Văn Đồng, Trung Quốc không chịu bất cứ thiệt hại gì và Việt Nam cũng không hưởng được bất cứ lợi ích gì (không đáp ứng được điều kiện thứ 4 như đã nêu). Trên cơ sở phân tích này, có thể thấy lập luận của Trung Quốc dựa trên nguyên tắc estoppel của luật pháp quốc tế là hoàn toàn vô giá trị.
Từ sau năm 1975, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã kế thừa chủ quyền từ VNCH nên hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để khẳng định chủ quyền hợp pháp của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng quan trọng hơn hết, như ông Đinh Kim Phúc, Trung tâm nghiên cứu Đông Á, Đại học Mở Thành Phố HCM chỉ ra: “Cần phải nói rằng từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa”.
Là quốc gia chiếm hữu 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đầu tiên khi nó còn là những vùng đất vô chủ, ít nhất từ thế lỷ XVII đến này, Việt Nam đã tổ chức khai thác khẳng định chủ quyền theo một cách liên tục, không gián đoạn.
Đó cũng chính là nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ được luật pháp quốc tế hiện đại thừa nhận. Trái lại, Trung Quốc chỉ quan tâm đến 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ đầu thế kỷ 20 và đánh cướp từ Việt Nam bằng các cuộc tấn công quân sự vào năm 1956, 1974 và 1988.
Theo Vietnamnet