VỀ ĐỀN HÙNG
Con đã về đây trước ngàn xưa ấy
Khúc ru huyền thoại bên hương khói mơ
Thấy sóng biển Cha dâng tràn dũng sĩ
Đất nước ngàn thiêng rừng Mẹ Âu Cơ...
Chúng con đã ở chiều dài nỗi nhớ
Và cả chiều xa nơi xứ sở người
Nhưng vẫn dõi nguồn trên cao Nghĩa Lĩnh (1)
Chăm kính ông bà, chăm kính Tổ tiên...
Vẫn yêu quê hương sông Đen, sông Đỏ (2)
Và con sông Xanh (3) bế bồng lời ru
Đất nước hội xuân linh thiêng Thần Thánh
Lộng tiếng Mẹ Cha hòa Bắc - Trung - Nam...
Con đã về đây kính ngày xưa ấy
Dân tộc tình thương đoàn kết vô bờ
Và sông nối núi cùng dâng khát vọng
Nghĩa Cha Lạc Long, tình Mẹ Âu Cơ...
Ngàn vạn Đất Hùng, tâm con dâng hiến
Đức hạnh ở cùng mãi mãi thời gian
Ai ơi trẩy hội nhớ nhiều nữa nhé
Con cùng một bọc, khắc cốt ghi tâm.
HỒN DÂN TỘC
Hồn dân tộc có thể từ Thần Nông (4)
Có thể Đế Minh (5), có thể Lộc Tục (6)
Còn đấy nước nhà Xích Quỷ, Văn Lang (7)
Trước gương mặt Việt vẫn đang Sùng Lãm (8)
Lạc Long, Âu Cơ (9) - bách họ - kết đoàn...
Và cả mùa xưa lúa, khoai...vẫn ước...
Nuôi gà chín cựa, chăm ngựa chín hồng mao (10)
Hạnh phúc bừng lên hóa thành...đôi lứa (11)
Nghĩa Lĩnh vô thường, mây phủ Tản Viên... (12)
Ai về Thăng Long, sắc tằm vàng bãi
Lụa nái Hùng Vương phơi phới thời gian
Phố thị bừng tên sông Hồng - Thánh Chử (13)
Rước dâu trinh bạch cát trắng ...Tự Nhiên...(14)
Đất nước chính dòng Ngô, Đinh, Lê, Lý (15)
Bao thời khắc đổi Ông Gióng bay lên
Bao đời linh thiêng ngút ngàn vệ quốc
Vẫn tiếng Mẹ, Cha sông biển dậy nguồn...
Bây giờ Việt Nam vững Hùng Vương đó
Này buổi mồng Mười trẩy Hội tháng Ba
Gối chuyện ngàn năm thắm hồn dân tộc
Ai có đi đâu xin nhớ lại Nhà...
TRẨY HỘI ĐI EM!
Anh đã gọi em trẩy hội Đền Hùng
Có thể là em đi cùng cha mẹ
Có thể nào em vẫn còn bé lắm
Có thể đẹp em khăn vấn đuôi gà
Và có thể em…vừa qua… cô Tấm...
Anh muốn gọi em trẩy hội Đền Hùng
Có thể hoa khôi đi cùng chúng bạn
Với cả lũ em vụng về hương khói
Chỉ biết sẻ nhỏ câu khấn mông lung:
- "Con xin Vua Hùng trăm mến ngàn thương..."...
Anh vẫn gọi em trẩy hội Đền Hùng
Cô gái ngày xưa lên bà, lên bác
Cô gái ngày nay làm mẹ ru hát
Mỗi câu ca về lộng gió Âu Cơ...
Mồng Mười tháng Ba cứ còn ở đấy
Lưu lời hôm nay, anh gọi trong thơ...
AI ƠI NHỚ LẤY
Một đời để nhớ trăm năm
Làm dân Nam để nhớ tâm Vua Hùng
Gốc người còn tổ còn tông
Nay ăn quả ngọt nhớ công ai trồng...?
Đây này Nghĩa Lĩnh, Lạc Hồng (16)
Văn Lang, Xích Quỷ vô cùng thánh nhân (17)
Bao nhiêu lạc tướng hưng thần
Bao nhiêu vua trước ân cần chăm dân...
Ta đi lại chốn dương trần
Phú Thọ giữ phúc tụ thần Tổ tiên (18)
Bắc Ninh trải chiếu Dương Vương (19)
Bình Đà trở dạ vô thường Âu Cơ... (20)
Triệu tâm trăm họ một đò
Đây con một bọc sao lo...đắm thuyền ?
Hai Bà Trưng khí hồng nguyên (21)
Lý Nam Đế (22) vẫn còn tuyên anh hùng...
Ngô Quyền sát phạt Bạch Đằng (23)
Vua Đinh xưng Đế vĩnh hằng nước non (24)
Lê Hoàn phá Tống, bình Chiêm (25)
Lý Thái Tổ dựng vương quyền Thăng Long... (26)
Nhà Trần Bứt phá Nguyên Mông (27)
Hậu Lê bẻ gãy giáo đồng giặc Minh (28)
Chúa Trịnh giữ đất Hòa bình (29)
Mở mang bờ cõi an ninh sử nhà.
Việt Nam chữ S bao la
Đồng lòng dân tộc xóa ba cường quyền (30)
Ngàn năm đất nước vẹn nguyên
Phượng tiên còn giữ sử thiêng cho rồng…
Ai ơi nhớ lấy nằm lòng
Hùng Vương lưu tất sử hồng dân ta
Bây giờ nối tiếp quả hoa
Việt Nam vẫn Hội tháng Ba mồng Mười... (31)
CHÚ THÍCH:
(1): Nghĩa Lĩnh là tên ngọn núi hiện tại có di tích đền thờ các vua Hùng Vương thuộc xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ.
(2), (3): Sông Đen, sông Đỏ và sông Xanh là các con Sông Đà, sông Hồng và sông Mê Kông. Truyền thuyết xưa coi sông là địa phận của Thần Nông trải rộng từ chân núi Hymalaya sang hồ Động Đình TQ và kéo dài suốt Đông Dương. Sau khi Đế Minh chia nước cho con là Kinh Dương Vương (Lộc Tục) cát cứ ờ Đông Nam Á gọi là nhà nước Xích Quỷ. Hiện còn di tích Lăng mộ và Đền thờ Kinh Dương Vương ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
(4) : Thần Nông còn có tên là Viêm Đế hay Ngũ Cốc Tiên Đế, là một vị vua huyền thoại của các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa, một trong Tam Hoàng và được xem là một vĩ nhân văn hóa Phương Đông. Theo truyền thuyết, Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra các vật cụ nông nghiệp và cũng là người đầu tiên làm lễ Lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cho nên trong dân gian có câu "Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc".
(5). Đế Minh: Là một nhân vật truyền thuyết vùng Đông Á. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, chép tại Kỷ Hồng Bàng Thị thì ông là cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông. Ông là cha của đế Nghi, sau này nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vũ Tiên, sinh ra Lộc Tục (Kinh Dương Vương). Đế Minh thấy Lộc Tục thông minh định truyền ngôi cho nhưng Lộc Tục không chịu nên ông đã chia đất nước làm 2 phần lấy sông Dương Tử làm giới tuyến, phía Bắc giao cho đế Nghi, phía Nam giam cho Lộc Tục gọi là nước Xích Quỷ.
(6): Lộc Tục: tức Kinh Dương Vương, là nhân vật truyền thuyết. Người Việt Nam coi ông là thủy tổ dân tộc. Ông đặt tên nước là Xích Quỷ, đóng đô ở Hồng Lĩnh (nay là Ngàn Hống, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh), sau đó dời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân, bắt đầu cho các vương triều Hùng Vương từ đấy.
(7), Xích Quỷ: Là tên một ngôi sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên bầu trời. Tục truyền là quốc hiệu của đất nước, được xem là cội nguồn của người Việt Nam. Xích (赤) nghĩa là đỏ, chỉ phương Nam. Quỷ (姽): đẹp, thùy mỵ - chỉ con gái, nữ tính (thời kỳ Mẫu hệ). Xích Quỷ là vương quốc của các tộc người Việt cổ, thời kỳ này tập trung các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Quý Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Sơn Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền Bắc Việt Nam...
(8), Sùng Lãm, (9) Lạc Long Âu Cơ : Sũng Lãm là tên thật của Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN) là nhân vật truyền thuyết Việt Nam, Ngài là con trai của Kinh Dương Vương (Lộc Tục) lấy người con gái tên là Thần Long ở Động Đình Quân. Lạc Long Quân lấy vợ là Âu Cơ được xem là thủy tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "đẻ bọc trăm trứng, nở ra trăm người con trai". Ngài đã có công trong việc thống nhất các bộ tộc người Lạc Việt, thành lập nhà nước Văn Lang, xưng hiệu Hùng Vương đời thứ nhất. Âu Cơ : Là con gái Đế Lai, được gả cho Lạc Long Quân và sinh trăm người con trai. 50 người theo mẹ về núi, 49 người theo cha xuống biển, để người con cả xứng hiệu Hùng Vương (vị Hùng Vương có tên là Hùng Lân vương (雄麟王): 2524 - 2253 TCN đã truy vinh các tiền đế Hùng Vương là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân), rồi truyền nhau danh vị Hùng Vương cai trị đất nước khoảng 2622 năm, đó là thủy tổ của Bách họ người Việt Nam. Từ đây người Việt có danh hiệu đất nước là Văn Lang cũng kéo dài như trên, đóng đô ở Phong Châu (nay là Phú Thọ).
(10) : Gà chín cựa, ngựa chín hồng mao: Một trong các đồ thách cưới của Hùng Vương thứ 18 với hai vị thần là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sơn Tính sinh lễ ăn hỏi đủ trước, được lấy Mỵ Nương, Thủy Tinh chậm chân nên hẫng hụt bèn trả thù bằng cách dâng nước lên cao nhưng bị thua liên tục.
(11) : Thánh Thần...đôi lứa: Trong các điển tích phong thần Việt Nam, thường có điển tích cặp đôi hiển Thánh như Thánh Tản Viên Sơn (Sơn Tinh) lấy Mỵ Nương; Thánh Chử Đồng Tử lấy Tiên Dung...
(12): Tản Viên Sơn Thánh : Còn gọi là Sơn Tinh, là vị thần cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên), một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt, coi Tản Viên là Thánh Cả (tứ bất tử là Tản Viên, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng và Mẫu Liễu Hạnh). Các sự tích, truyền thuyết về Đức thánh Tản (đặc biệt là truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh), thể hiện khát vọng làm chủ thiên nhiên của người Việt, mở đất, dựng nước.
(13), (14) Tự Nhiên: Chử Đồng Tử : Là tên của một vị thánh nổi tiếng, một trong "Tứ bất tử" trong tín ngưỡng Việt Nam. Truyền thuyết về Tiên Dung-Chử Đồng Tử là một trong những huyền sử được ghi chép trong sách Lĩnh Nam chích quái (đọc sách). Thời ấy vua Hùng Vương thứ 18 có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến bãi sông Hồng. Nghe tiếng đàn sáo lại cùng nghi trượng, Chử Đồng Tử hoảng sợ vì trên mình không mảnh vải che thân, vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ Chử Đồng Tử ẩn trốn. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng. Bãi cát này được người sau đặt tên "Tự Nhiên", nay là xã Tự Nhiên, Thường Tín, HN.
(15) : Ngô, Đinh, Lê, Lý: Là các dòng họ nối nhau làm vua cai trị đất nước từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13
(16) : Nghĩa Lĩnh, Lạc Hồng: Nghĩa Lĩnh là tên núi thuộc xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi có di tích thờ các vua Hùng Việt Nam. Lạc Hồng: là chỉ người VN cùng chung dòng máu tiên tổ Lạc Long và Âu Cơ mà ra.
(17): Văn Lang, Xích Quỷ: Là tên cổ của nước Việt Nam thời trước các vua Hùng (Xích Quỷ), đương đại vua Hùng là Văn Lang (đọc thêm chú thích 7).
(18) : Phú Thọ : Là tỉnh có di tích thờ gốc các vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc xã Hy Cương, huyện Lâm Thao.
(19) : Bắc Ninh: Có huyện Thuận Thành, xã Đại Đồng, làng Á Lữ vẫn còn di tích Lăng Mộ và Đền thờ Kinh Dương Vương
(20) : Bình Đà: Tên xã, thuộc huyện Thanh Oai (Hà Tây cũ), có Đình thờ Lạc Long Quân là Thần Hoàng làng. Tại cánh đồng phía tây bắc làng còn chiếc giường đá, tương truyền đây là chỗ Mẹ Âu Cơ trở dạ sinh hạ bọc trăm trứng. Dưới phiến đá có ghi dòng chứ Hán "Bất di bất dịch" (TG).
(21) : Hai Bà Trưng: (010 - 043 SCN) Là tên gọi chung của Trưng Trắc và Trưng Nhị (hai chị em ruột). Hai Bà Trưng khởi binh chống lại quân Hán, lập ra một quốc gia, lấy kinh đô tại Mê Linh và tự phong là Nữ vương. Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân của Mã Viện đánh bại, tục truyền rằng vì không muốn chịu khuất phục, hai Bà đã nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết (tự tử). Đại Việt Sử ký Toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam. Hai Bà Trưng mất ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43.
(22) : Lý Nam Đế: Lý Nam Đế (503–548) là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Lý Bí (李賁), còn gọi là Lý Bôn, người làng Thái Bình, phủ Long Hưng, Việt Nam (khoảng Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Tuy nhiên, theo nhận định gần đây, quê gốc của Lý Nam Đế thuộc địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày nay. Ông có tài văn võ song toàn và đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ nhà Lương, rồi xưng là Nam Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên.
(23) : Ngô Quyền: Ngô Quyền (898 - 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王), là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
(24) : Vua Đinh: Tức Đinh Tiên Hoàng (924 - 979) là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành Hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc.
(26) : Lý Thái Tổ : (974 – 1028), húy là Lý Công Uẩn, là vị Hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến năm 1028 và truyền tiếp 8 đời vua sau với thời gian 216 năm. Dưới triều nhà Tiền Lê (Lê Đại Hành), lý Công Uẩn làm quan đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, một chức quan võ chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư bấy giờ. Ông được lực lượng của Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh tôn làm vua sau khi vua Lê Long Đĩnh qua đời. Dưới triều ông, triều đình trung ương được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên Thăng Long vào tháng 7 năm Thuận Thiên thứ hai (1010). Nhà Lý có trang sử vinh quang đánh giặc Tống và trị vì đất nước 216 năm.
(27): Nhà Trần đã lập nhiều trang sử oanh liệt, 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm lược từ những năm 1258 lần thứ nhất. 1285 lần thứ hai và 1287 lần thứ ba. Trị vì đất nước độc lập 175 năm.
(28): Nhà Hậu Lê do Lê Thái Tổ, lãnh đạo cuộc khỏi nghĩa Lam Kinh dành lại chính quyền từ tay xâm lược nhà Minh đô hộ đất nước ta từ 1400 đến 1427. Lập quyền trị vì đất nước (cộng cả thời Lê Trung hưng) là 362 năm.
(29): Nhà chúa Trịnh có 12 chúa cùng các vua Lê trị vì đất nước theo chính sách lưỡng đầu chế “Vua cầm quyền, Chúa nhiếp chính” (như Nhà nước và Chính phủ bây giờ) ở thời Lê Trung hưng, hay còn gọi thời Lê-Trịnh với thời gian 256 năm, giữ vững ngoại giao hòa khí lân bang, đòi được bờ cõi phía Bắc, đồng thời mở mang bờ cõi xuống phía Nam hình thành một nền tảng văn hóa lịch sử chung Đại Việt như nước Việt Nam bây giờ mang hình chữ S.
(30): Đồng lòng dân tộc xóa ba cường quyền: Ý chỉ ở thời đại vinh quang lập nghiệp tự do và chủ quyền dân tộc theo truyền thống chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam đã đồng lòng đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật và chống Mĩ cứu nước từ nửa giữa thế kỉ 19 đến cuối giữa thế kỉ 20.
(31) : Tháng Ba mồng Mười: Tức Mồng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm được nhân dân coi là ngày Giỗ Tổ chung của toàn đất nước và dân tộc. Đầu tiên Lễ giỗ này được tiến hành vào mùa thu, là mùa tổ chức các lễ hội có lịch sử cổ xưa hơn các lễ hội mùa xuân. Đến năm 1917, có ông quan Tuần phủ Phú Thọ (tương đương Chủ tịch tỉnh) là Lê Trung Ngọc (1867 – 1928) có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương trước một ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ. Đến 1940 có quan Tuần phủ, kiêm Tham tri là Bùi Ngọc Hoàn cho khắc bia quy định chính thức của triều Nguyễn (đời vua Khải Định) lấy ngày 10/3 âm lịch hàng năm làm ngày “quốc tế” (Quốc lễ, quốc giỗ). Năm 2007 là năm đầu tiên người lao động được nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.