Người Việt Odessa
Chia sẻ cộng đồng

Đi thăm làng thổ dân Ashaninka

Thứ hai, 28/04/2014 | 14:00
Đã từ lâu cuộc sống hoang dã, mọi rợ của các bộ lạc thổ dân Amazon có sức quyến rũ đặc biệt với mình. Ngày trước có 1 cậu bồi bàn làm việc cùng mình đã từng sống với những người Chuncho ấy và thế là ngày nào mình cũng tròn mắt á ố nghe hắn kể chuyện thật giả lẫn lộn về những con người mạnh mẽ phóng kho&aacut

Đến Satipo, 1 thị trấn thuộc tỉnh Junin (miền trung Peru) chúng tôi thuê 1 cậu dẫn đường tên là Gaspar.Vùng đầm lầy Amazon nói chung còn khá xa lạ với khách du lịch nên dịch vụ hướng dẫn du lịch vẫn là rất rẻ. Gaspar đòi chúng tôi 200 soles cho 1 ngày vừa dẫn đường vừa làm hướng dẫn viên du lịch.Gaspar cẩn thận mang theo 1 cuộn thừng thắt nhiều nút và 1 cây rựa đi rừng. Sau này mới thấy rựa và thừng là thứ không thể thiếu được để vượt qua những cánh rừng nhiệt đới.

Xe chúng tôi nhằm hướng rừng nguyên thủy Jungle tiến vào. Kể ra xe 4x4 cũng lợi hại, trèo đèo , lội suối chán chê, cuối cùng thì cũng phải xuống xe đi bộ. Khu rừng Jungle hầu như còn nguyên vẹn, chưa bị bàn tay con người đụng vào.Rừng rậm rịt, Gaspar luôn phải đi trước, dùng rựa phạt cây lấy đường đi, không quên chỉ cho tụi trẻ con những tổ kiến to tướng trên thân cây , hay phát hiện ra những con gà rừng màu da cam thấp thoáng ở xa tít.Có đoạn dốc đứng, cậu ta phải buộc thừng vào thân những cây lớn và bọn tôi bám vào, leo lên. Rừng nhiệt đới cây cối đủ loại, tầng tầng, lớp lớp, nhiều nhất là các loài dương xỉ.Dương xỉ mọc vô tư, lá to như tàu dừa.Rồi các cây sống gửi như lan, vạn liên thanh… nhiều vô kể. Dưới chân là 1 thảm thực vật dày, mục nát và ẩm ướt. Đâu đâu cũng nghe tiếng thác đổ, giữa rừng đôi khi cũng gặp những thác nhỏ, phía dưới là những vũng nước trong suốt, đầy rêu. Chúng tôi đã qua thác Bayoz, thác cao vút, chia làm 5 khúc, rồi thác “Voan cô dâu” , nước trắng xóa, xổ tung như làn khăn voan của cô dâu vậy.Hết đoạn Jungle là đến những đồi dứa bạt ngàn. Ở đây người ta trồng 3, 4 loại dứa. Có loại dứa địa phương quả nhỏ, da vàng. Dứa Hawai xanh thẫm và to hơn. Lại có loại dứa Golden nhập từ Mỹ ngọt lịm, mắt rất nông nên ăn không rát lưỡi.Gaspar phạt cả chục quả dứa 1 lúc, ăn ngắc ngư. Lại đến những đồi trồng toán sắn, chuối, café, cacao…Lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy cây cacao, cây thân gỗ, quả treo lủng lẳng trên thân giống hệt trái bóng bầu dục. Có đến 5, 6 loại Cacao khác nhau, có loại quả to như quả đu đủ, quả chín có màu xanh nhạt. Có lọai quả có màu nâu đỏ khi còn xanh, càng chín vỏ càng nhạt màu. Quả cacao có nhiều múi, lớp thịt mỏng thôi, có màu trắng ngà, ăn ngai ngái, rôn rốt. Hạt cacao dùng để chế Cacao, chocola.Lại thoải mái chén cacao đến xít răng cồn ruột.

Đi mãi cuối cùng cũng có dấu hiệu 1 bản làng. Mấy thằng bé tóc tai vàng hoe, rối bù đang trảy dừa, thấy bọn tôi chúng 3 chân 4 cẳng chạy về báo và phút chốc từ những mái nhà sàn lợp cọ ùa ra rất nhiều phụ nữ và trẻ con.

“Abiro! Abiro!” Họ ríu rít chào chúng tôi bằng thứ thổ ngữ Chuncho. Người Ashaninka vẫn dùng tiếng nói riêng của mình và sống khá cách biệt với xã hội văn minh.Các bà các cô tay bắt mặt mừng( sau này tôi mới biét vì sao họ lại mừng rỡ như vậy)

Bản Otari cũng như nhiều bản làng của người Ashaninka nằm rải rác trên lưu vực các sông Chanchamayo, Ene, Perene và Tambo là các nhánh của dòng sông Amazon . Khác với các bộ lạc ở hạ lưu, người Ashaninka không cởi trần , đóng khố như chúng tôi mong đợi mà ăn mặc khá kín đáo. Đàn ông, đàn bà, trẻ con ai cũng khoác 1 tấm choàng may như bao tải, dài quá đầu gối gọi là Kushima. Phụ nữ mặc cổ khoét sâu để tiện cho con bú. Các bà các cô tự dệt bằng sợi lanh và nhuộm màu bằng các loại hạt rừng và rễ cây. Áo của đàn ông có khác là có in nhiều hình vẽ và hoa văn lạ mắt.Sau màn chào hỏi, các bà các cô lôi tuột chúng tôi vào hiên nhà, mặc Kushima cho chúng tôi y như họ, lại đội cho đám đàn ông những cái mũ nan có đính lông chim, ông trưởng bản có mũ đính nhiều lông chim hơn. Xong lại vẽ mặt, choàng cho chúng tôi lủng củng dây dợ, vòng hạt sặc sỡ.Người Ashaninka ai cũng bôi mặt bằng phẩm màu đỏ cam lấy từ 1 loại hạt rừng trộn với mỡ trăn. Ngày thường đàn ông vạch 3 vạch lên má, trán và cằm.Phụ nữ có chồng vạch 2 vạch, còn thiếu nữ 1 vạch.Ngày lễ thì họ bôi phẩm đầy mặt và vẽ những hình thù kỳ quái. Người Ashaninka tin rằng những hình vẽ trang trí trên mặt sẽ che chở cho họ khỏi sự tấn công của ma quỉ.Ông trưởng bản Otari tên là Shamanero mời chúng tôi vào nhà rông, là 1 ngôi nhà lớn giữa bản nói chuyện, uống nước. Ông lần lượt giới thiệu với chúng tôi gia đình đông đúc 6 bà vợ và 20 đứa con của mình.Người Ashaninka quan niệm về chuyện hôn nhân rất thoáng. 1 người đàn ông có thể có từ 3 đến 10 bà vợ. Ông chồng làm cho mỗi bà 1 mái nhà, các bà ăn ở hòa thuận với nhau.Thực ra nuôi một bầu đoàn thê thiếp ở đất rừng Amazon này cũng chẳ̀ng khó khăn gì, đất đai mênh mông, tre nứa bạt ngàn , đồ ăn, mặc đều của rừng cả. Các cô gái ưng người đàn ông nào chỉ việc trao 1 cây gậy vào tay người ấy, còn người đàn ông thì buộc vào cổ tay cô gái 1 cái vòng, thế là thành vợ thành chồng.Ông chồng lần lượt ở với mỗi bà vợ 1 ngày. Thế mới có chuyện bác Ro nhà mình đang lớ ngớ đứng đó đã có 1 cô ấn ngay 1 cái gậy vào tay-thế là tổ chức đám cưới. Dân làng hò reo , nhảy múa. Ông trưởng bản tuyên bố lễ thành hôn cho 2 người. Thế rồi người ta khuân ra những vò rượu Masatka, rượu có màu hồng sóng sánh rất hấp dẫn, uống thấy ngọt ngọt , cay cay như rượu nếp.Già trẻ, trai gái ai cũng uống say ngất ngư.Uống chán chê tôi mới được cậu Gaspar giải thích:masatka la loại nước lên men truyền thốngcủa người Ashaninka làm từ sắn. Sắn được đồ lên như ta đồ sôi, sau đó các bà, các cô nhai nhuyễn với nước miếng của mình, rồi ủ cho lên men.Cha mẹ ôi! Nghe xong chỉ muốn ói ¡không khéo trong lúc cao hứng mình lại nuốt phải vài cái răng của mấy bà già móm mém kia thì khốn.Sau rồi tất cả kéo nhau ra khoảng đất rộng giữa bản nhảy múa.Các cô gái ê a những điệu hát trầm buồn , kể lể về nỗi thống khổ cả ngàn năm của người Ashaninka.

Người Ashaninka sống du canh, du cư trong những khu rừng nhiệt đới,thấy khoảng đất nào đẹp, gần sông nước thì đóng đô, làm nhà sàn bằng tre nứa, lợp lá cọ. Đàn ông chủ yếu vào rừng săn trăn, rắn lấy mỡ bán, đánh cá trên sông bằng những chiếc thuyền độc mộc khoét từ 1 thân cây gỗ. Phụ nữ ở nhà nấu nướng, làm masatka, sâu vòng, làm đồ lưu niệm bán cho khách du lịch. những chiếc vòng cổ, vòng tay được kết khéo léo từ hạt quả rừng là trang sức của đàn bà, con gái Ashaninka. Món ăn quen thuộc của người Ashaninka là cá bọc lá nướng, ăn với sắn luộc, chuối rừng luộc.Ngày nay cuộc sống ở những bản làng Ashaninka đã không còn tối tăm lắm, con em đã được gửi đi học ở các trường phổ thông ở các thị xã lân cận.Truyền thông cũng đã vươn tới những bản này rồi.Các gia đình đã xử dụng điện thoại di động, tivi. 1 bà tên là Siri nhất định lấy số điện thoại của mình để có dịp sẽ xin tài trợ, ủng hộ con em họ.Nhảy múa chán họ kéo bọn mình vào các chòi, mời mua bằng được 1 món đồ lưu niệm mà họ tự làm. Mình mua 1 hộp bươm bướm ép, thứ bướm màu xanh biếc, to băng bàn tay, bay đầy lèn suối. Nhưng hội này tinh ranh, chẳng thể bắt nổi. Các em bé Ashaninka dùng vớt bắt và ép khô đem bán.

Ông trưởng bản Shamanero

Ông trưởng bản Shamanero

em gái Ashaninka

em gái Ashaninka

rượu Masatka

rượu Masatka

bác Ro vớ được cô vợ Ashaninka cười như được mùa

bác Ro vớ được cô vợ Ashaninka cười như được mùa




Nguồn: Facebook - Phan Quỳnh Giao