Người Việt Odessa
Chia sẻ cộng đồng

Việt Nam phong tục (1915) - Cha mẹ với con

Thứ tư, 26/02/2014 | 01:30
Cha mẹ: Hai tiếng cha mẹ, nước ta mỗi nơi gọi cũng hơi khác nhau: Nơi thì gọi là Bố là Ðẻ, nơi thì gọi là Thầy là U. Về đường ngược (Hưng Hóa) thì gọi mẹ là Bầm, về đường trong thì gọi là Bu. Nam kỳ thì gọi cha là Tía, mẹ là Má. Ở đây, bây giờ lại nhiều người cho con gọi cha là Ba, gọi mẹ là Me. Còn các nhà hiếm hoi thì c

Sinh con: Ðàn bà có mang ai cũng muốn sinh con trai mà ít người muốn sinh con gái. Hàng xóm bà con nghe thấy sinh con trai thì mừng. Trong khi có mang, váng đầu, đau mình thì gọi là ốm nghén; hay thèm ăn của chua, của chát gọi là ăn dở. Ðến lúc sinh sản, mời bà tắm đến đỡ, con xổ ra rồi thì cắt rốn chôn nhau. Chôn phải sâu, nếu chôn nông thì con hay bị trớ, mà phải tránh chỗ giọt gianh (chỗ nước mưa mái nhà nhỏ xuống - Yahoo) kẻo về sau con chốc đầu toét mắt.

Việt Nam phong tục (1915) - Cha mẹ với con

Người mẹ thì phải kiêng khem gió máy, phải nằm than. Ăn cơm thì phải ăn muối hấp hoặc nước mắm chưng, vài ba hôm mới dám ăn đến thịt. Ðầy cữ, (con trai 7 ngày, con gái 9 ngày) xông muối xoa nghệ rồi mới dám ra đến ngoài.

Nhà nghèo nuôi con lấy, nhà giàu nuôi vú cho con. Có người cho vú đem về nhà nuôi. Cho bú độ ba bốn tháng thì cho ăn cơm và vẫn cho bú đến độ ba, bốn tuổi mới thôi.

Con nhà nào ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò cò chạy chơi, là hợp vào ca thi, dễ nuôi mà mai sau làm nên ngươi.

Tục ta hỏi thăm nhau đẻ con trai hay là con gái, người có chữ thường nói lộng chương hay lộng ngõa (nghĩa là chơi ngọc hay chơi ngói). Ðiển ấy do ở Kinh Thi: sinh con trai thì quí hóa mà cho chơi bằng hạt ngọc, sinh con gái thì khinh bỉ mà cho chơi bằng hòn ngói. Lại có người hỏi huyền hổ hay huyền cân (nghĩa là treo cung hay là treo khăn mặt). Ðiển ấy cũng do tục Tàu: để con trai thì treo cái cung ngoài cửa, mà đẻ con gái thì treo cái khăn mặt. Ta dùng điển mà hỏi thăm chứ ta không có cái tục ấy.

Cúng mụ: Trong sách Bắc Hộ Lục có nói rằng Tục Lĩnh Nam nhà giàu đẻ con được ba ngày, hoặc đầy tháng thì tắm cho con, làm một bữa tiệc gọi là đoàn du phạn (nghĩa là bữa cơm tròn trặn trơn tru). Sách Vân đài loại ngữ của ông Lê Quí Ðôn thì nói rằng: Tục nước ta đẻ con được ba ngày, làm vài mâm cỗ cúng mụ. Ðến hôm đầy tháng, hôm một trăm ngày, hôm đầy tuổi tôi đều có làm cỗ cúng gia tiên, bày tiệc ăn mừng. Bà con, người quen thuộc dùng thơ, câu đối, đồ chơi, đồ quần áo trẻ để mừng nhau. Mà nhất là tiệc một trăm ngày và tiệc đầy tuổi to hơn cả.

Cứ như tục thành phố Hà Nội bây giờ đẻ con ra đầy cữ, đầy tháng đầy tuổi tôi, mới làm cỗ cúng mụ. Trong lễ cúng thì dùng mười hai đôi hài, mười hai miếng trầu cau, cua ốc, nham, bánh đúc v.v... Vì tin rằng có mười hai bà mụ nặn ra người.

Thử con: Tàu có tục đẻ con đầy một năm thì làm một tiệc thử con. Hôm ấy tắm rửa cho con sạch sẽ, mặc quần áo mới, con trai thì bày đồ cung tên giấy bút, con gái thì bày đồ kim chỉ dao kéo. Lại bày những đồ chơi quí báu ở trước mặt đứa trẻ để nghiệm xem nó tham liêm ngu trí làm sao, chữ gọi là tiệc thí nhí (thử trẻ). Các nhà đại gia ở ta cũng theo tục ấy, nhưng chỉ bày ít món đồ ấn triện cung tên, bút mực, cày bừa, gọi là trong bốn món văn, vũ, canh, độc để nghiệm đứa trẻ mai sau làm gì thôi.

Thuật kiêng cữ: Con nhà nào sinh phải giờ con sát, hay phải giờ kim xà thiết tỏa, sợ mai sau khó nuôi thì cúng đổi giờ. Nhà nào sinh con muộn mằn sợ khó nuôi thì làm lễ bán cửa tĩnh hoặc là bán cửa chùa nào cho con làm con Thánh con Phật gọi là bán khoán. Bán cho cửa tĩnh thì thờ Ðức Thánh Trần, bán cho nhà chùa thì đổi họ gọi là họ Mâu, đến mười hai tuổi mới làm lễ chuộc về làm con mình.

Ðưa con cho người khác bế, không được đưa qua cửa, mai sau sợ con đi ăn cắp ăn trộm. Ẵm con đi đâu phải bôi ít nhọ chảo trên trán hoặc cầm con dao, cái kéo hay là chiếc đũa đi theo, kẻo sợ người ta quở quang.

Con hay khóc đêm, gọi là dạ đề thì mượn một người khác lấy cái cọc chuồng lợn ném xuống gầm giường thì khỏi khóc. Có người lạ vào, con khóc mãi không thôi thì lấy một bó lửa ném vào trước mặt người ta thì con thôi khóc.

Con ngủ li bì không dậy, lấy vài cái tóc mai của người ngoài phẩy vào miệng đứa trẻ thì khỏi.

Con hay trớ, lấy nước lòng đò cho uống thì khỏi.

Con nấc, lấy ngọn của lá trầu không dán vào chỗ trán cho nó. Con ngủ giật mình, luộc một cái trứng gà, con trai cắt thành bảy miếng, con gái chin miếng và bảy hay chín nắm cơm, hú vía cho nó rồi cho nó ăn thì nó khỏi sợ.

Con đau bụng khóc lắm, mượn người nhổ bão (nhổ cục tóc trên đầu) cho mẹ nó thì khỏi.

Con lòi rốn, mượn kẻ ăn mày cầm gậy chọc vào rốn nó thì khỏi.

Con chơi phải chỗ cỏ ngứa, nổi mẩn tịt cả mình mẩy gọi là ma tịt, thì ngửa một cái nón mê (nón lá cũ - yahoo), tễ bảy hoặc chín miếng trầu lá lốt cúng ông Cầu bà Quán cho nó thì khỏi.

Con lên đậu, ngoài cửa treo một bó vàng và trồng một cây lá ráy vào một cái nồi đất ở trước cửa, hoặc cài một cành kinh giới để giữ cho con được bình yên.

Con hắt xì hơi thì nói: Sống lâu trăm tuổi, già đầu, thượng thọ để chúc thọ cho con.

Con quặt quà quặt quẹo thì bế đứa con đưa qua cái săng người già chết thì nó được sống lâu.

Cách đặt tên:

Con mới sinh ra thì thường gọi là thằng đỏ con đỏ, ở về nhà quê thì thường gọi là thằng cu con đĩ, ở về vùng quê Thanh Nghệ thì thường gọi là thằng cò con hĩm chứ không mấy người mới sinh ra đã đặt tên. Ðặt tên thì nhà thường dân hay bạ tên gì đặt nấy, hay lấy vần hoặc lấy nghĩa gần nhau với tên cha mẹ mà đặt. Ví như cha mẹ tên Lần thì đặt tên là Thần, cha mẹ là Nhăng thì đặt là Nhố, hoặc cha mẹ là Ðào thì đặt là Mận, cha mẹ là Sung thì đặt con là Vả, v.v... Kẻ hiếm hoi thì thường lấy tên xấu xí mà đặt cho con, như gọi là thằng Cún (con chó cún) thằng Ðực (con chó đực) v.v... Nhà có học thì thường kiếm những tên đẹp đẽ mà đặt cho con, mà nhất là hay tìm từng bộ chữ Nho. Ví như người dung toàn một bộ chữ Ngọc, như anh là Hoàng thì em là Hành, là Cư, là Vũ, người thì dung bộ chữ Thủy như anh Giang thì em là Hoài là Tế v.v...

Việt Nam phong tục (1915) - Cha mẹ với con

Cha và con một nhà giàu

Cho con đi học: Nhà nho gia cho con độ năm, sáu tuổi, nhà thường dân cho con độ mười một mười hai tuổi thì cho con đi học. Người biết chữ thì dạy lấy, hoặc mời ông thầy trong làng, lúc mới học thì phải biện lễ giầu, rượu, con gà ván xôi để ông thầy làm lễ Thánh sư, rồi dạy vỡ lòng cho con dăm ba chữ hoặc bảy tám chữ, dần dần mới lại kén thầy mà học rộng mãi ra. Con gái thì ít người cho đi học, mà có cho đi học đủ biên sổ sách và biết tính toán mà thôi. Về phần nhà nghèo thì con lên bảy, tám tuổi còn phải ở nhà bồng em, làm đỡ cho cha mẹ, chín mười tuổi đã phải lập nghề làm ăn, không mấy nhà cho đi học.

Lo lắng cho con: Con độ tuổi mười bốn, mười lăm tuổi trở lên cha mẹ đã đem lòng lo bề gia thất, con trai thì mong dựng vợ, con gái thì mong gả chồng. Xong việc vợ chồng thì lo đến cách lập thân cho con, ngần nào lo phường lo trưởng, lo nhiêu lo xã, cho con bằng mày bằng mặt với làng nước; ngần nào lo sinh cơ lập nghiệp cho con mai sau có chỗ nương nhờ. Nước ta lắm người đẻ nhiều con thì phải lo hết con này đến con khác, có người lo cả đời chưa hết.

Xét cái tục ta, sinh ra con ai cũng biết thương biết mến, biết chăm chỉ nuôi nấng, dạy dỗ cho con nên người, nưng như nưng trứng, hứng như hứng hoa, thực là hết lòng hết dạ. Loài người cũng nhờ có tính ấy mà bảo tồn được chủng loại cho mỗi ngày được sinh sôi nảy nở thêm ra, thì lòng nhân từ ấy rất là hay lắm. Nhưng chỉ hiềm ta khi xưa chưa hiểu cách vệ sinh, trong khi sinh sản, nào nằm than, uống nước tiểu, đấy là một cách làm cho sinh bệnh, không trách đàn bà ta nhiều người sinh ra hậu sản mà ốm mòn. Ðến lúc nuôi con thì lại hay tin những điều nhảm nhí, không có bậc triết học nào mà triết hết những sự huyền hão ấy. Cho đi học, không có qui củ cách thức nào, còn phần nhiều thì học năm mười năm thì dốt vẫn hoàn dốt, cho nên trong nước một trăm người mới được một hai người biết chữ, cũng chỉ vì cách dạy dỗ không tiên liệu đấy thôi

Ðến lúc con lớn thì lại lo thay cho con quá. Mà nào lo có ra lo, lo những ngôi thứ trong làng, lo những danh phận vô ích, chứ nào có lo nên một bậc người gì, hay là thành được một nghề gì đâu. Cái lo lắng ấy, hẳn sinh ra lười biếng, hay ăn chơi. Cho nên lắm người, đời cha mẹ hàn gắn chắt chiu, làm nên giàu có, mà đến đời con thì chỉ ăn chơi chỉ phá chẳng bao lâu mà hết nhẵn như không.

Cứ như Âu Châu, khi sinh sản, các bà đỡ, cô đỡ chuyên môn đến đỡ, có thuốc có thang, ăn uống sạch sẽ.

Khi còn thơ ấu, nuôi nấng có điều có độ, từ lúc cho bú, lúc nào cho ngủ, lúc cho chơi cũng có thì giờ, thực là hợp với cách vệ sinh. Khi biết học thì cho vào trường học, dạy dỗ có thứ tự, có khuôn phép. Ðến lúc khôn lớn, mặc ý cho mà lập thân, không cần gì phải lo lắng thay cho nữa. Bởi vậy, con ít tật bệnh, mà nhiều người thông thái, lại gây cái tính tự lập cho con

Ít lâu nay, ta cũng có nhiều người nhiễm theo thói Âu Châu, trong cách sinh sản, nuôi nấng, cũng đã đổi bỏ thói cũ, có lẽ về sau cũng theo nhau mà đổi được hết.

Phan Kế Bính


Đại sứ quán Việt nam tại Ucraina
Hàng Khô Việt Nam
Khai trương quán ăn Việt - Old Street
 

UnTeks Group

Dệt Kim Unteksgroup

PHÒNG CHẨN TRỊ Y HỌC CỔ TRUYỀN